SKKN Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh Tiểu học

docx 20 trang Lục Kiêu 18/04/2025 260
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh Tiểu học

SKKN Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh Tiểu học
 PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP
 TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN SƠN
 ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
 MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC CÁC TRÒ CHƠI 
 DÂN GIAN NHẰM GÓP PHẦN GIÁO DỤC NHÂN CÁCH VÀ BỒI DƯỠNG 
 TÂM HỒN TRONG SÁNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Nhóm tác giả: Nguyễn Đình Vinh
 Phạm Thị Hương
 Nguyễn Thị Hằng
 Nguyễn Đình Như
 Lê Thị Hiền
 Yên Sơn, tháng 05 năm 2022
 1 PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP
 TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN SƠN
 TÊN SÁNG KIẾN
 MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC CÁC TRÒ CHƠI 
 DÂN GIAN NHẰM GÓP PHẦN GIÁO DỤC NHÂN CÁCH VÀ BỒI DƯỠNG 
 TÂM HỒN TRONG SÁNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Nhóm tác giả: Nguyễn Đình Vinh
 Phạm Thị Hương
 Nguyễn Thị Hằng
 Nguyễn Đình Như
 Lê Thị Hiền
 Yên Sơn, tháng 05 năm 2022
 2 I. TÊN SÁNG KIẾN, LĨNH VỰC ÁP DỤNG
 1.Là tác giảđề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số hình thức và phương pháp 
tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm 
hồn trong sáng cho học sinh tiểu học.”
 2. Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học 
sinh trong trường tiểu học.
 II. NỘI DUNG
 1. Giải phát cũ thường làm:
Một số năm gần đây nhìn chung các trường đã tổ chức đưa trò chơi dân gian vào 
trường học, song hiệu quả mang lại chưa cao vì cách thức tổ chức còn sơ sài, mang 
tính đơn điệu, chưa thu hút được các em HS tham gia một các đầy đủ vì vậy chưa 
mang lại hiệu quả giáo dục như ý muốn. Người tổ chức còn thiếu kinh nghiệm về vốn 
kiến thức cũng như đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học. Chính vì thế 
chưa thực sự thu hút được các em tham gia đông đảo, tinh thần tự giác chưa cao, chỉ 
khi thầy cô nhắc nhở hay tổ chức thì các em mới chơi. Cáctrò chơi dân gian nói 
chung chưa đi vào cuộc sống thường ngày như một món ăn tinh thần không thể thiếu 
đối với các em. 
 1.1 Ưu điểm của giải pháp cũ
Thực tế cho thấy một số trò chơi mang tính bạo lực như súng đạn, gươm.. xuất phát 
từ Trung Quốc đang lan tràn vào thị trường Việt Nam, bên cạnh đó sự phát triển của 
internet các quán Games online ngày càng xuất hiện nhiều làm ảnh hưởng đến sức 
khỏe và tinh thần của các em học sinh, gây nên tình trạng học sinh bỏ học, trốn học đi 
chơi điện tử dẫn đến kết quả học tập sa sút, thậm chí còn dẫn đến các hiện tượng tiêu 
cực như ăn cắp tiền của và một số biểu hiện tiêu cực khác gây nên sự tha hóa về đạo 
đức của một số bộ phận học sinh. Việc tổ chức các trò chơi dân gian, một hoạt động 
mang tính truyền thống được lưu truyền trong dân gian đã giúp các em học sinh biết 
thêm được nhiều trò chơi bổ ích nhằm khơi dậy trong các em tình yêu quê hương đất 
nước và con người Việt Nam, đồng thời góp phần giáo dục đạo đức giúp các em 
tránh xa được các trò chơi độc hại.
 1.2Nhược điểm của giải pháp cũ
 3 - Một số năm gần đây nhìn chung các trường đã tổ chức đưa trò chơi dân 
gianvào trường học, song hiệu quả mang lại chưa cao vì cách thức tổ chức còn sơ sài, 
mang tính đơn điệu, chưa thu hút được các em HS tham gia một các đầy đủ vì vậy 
chưa mang lại hiệu quả giáo dục như ý muốn. Người tổ chức còn thiếu kinh nghiệm 
về vốn kiến thức cũng như đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học. Chính vì 
thế chưa thực sự thu hút được các em tham gia đông đảo, tinh thần tự giác chưa cao, 
chỉ khi thầy cô nhắc nhở hay tổ chức thì các em mới chơi. Cáctrò chơi dân giannói 
chung chưa đi vào cuộc sống thường ngày như một món ăn tinh thần không thể thiếu 
đối với các em. 
 2. Giải pháp mới cải tiến:
 Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huy giám đốc bảo tàng dân tộc học Việt Nam 
cho rằng: Trò chơi dân gian không chỉ đơn thuần là một trò chơi của trẻ nhỏ mà nó 
còn chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và giầu bản sắc. Trò 
chơi dân giankhông chỉ nâng cánh cho tâm hồn, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, 
sáng tạo, sự khéo léo mà còn giúp các em hiểu biết về tình bạn, tình yêu gia đình, quê 
hương đất nước.Chính vì thế khi tôi được phân công làm TPT Đội của nhà trường 
năm học 2021 - 2022 các trò chơi dân gian đã được đặt ra trong chủ đề của năm học 
và là việc làm được tổ chức thường xuyên, có kế hoạch, có ý nghĩa để xây dựng 
trường học thân thiện, học sinh tích cực. Tạo tâm lý thoải mái cho học sinh đến 
trường. Để làm tốt được việc đó tôi đã có một số giải pháp cải tiến như sau:
2.1. Giải pháp 1: Tìm hiểu và nắm vững các bước thiết kế một hoạt động tổ chức 
trò chơi dân gian
Bước 1: Công tác chuẩn bị
 Người giáo viên TPT cần tìm hiểu và nghiên cứu kỹ các công văn, chỉ thị của 
Phòng GD&ĐT, HĐĐ các cấp và nhiệm vụ năm học của nhà trường, đồng thời nắm 
bắt những nhu cầu, nguyện vọng của các đội viên trong liên đội để từ đó xây dựng kế 
hoạch hoạt động thật phù hợp với đặc điểm vùng miền, đồng thời phải đảm bảo 
những nội dung, yêu cầu đề ra. 
Bước 2: Thiết kế nội dung, chương trình hoạt động: 
 4 Đây là một khâu hết sức quan trọng, có tính quyết định cho việc thành công hay 
không của việc tổ chức các trò chơi dân gian, phải đảm bảo bám sát mục đích, yêu 
cầu đặt ra và phải có tính khả thi cao.
Xác định những công việc thường xuyên, chủ yếu và trọng tâm.
 Tiến trình công việc phải gắn với thời điểm cụ thể của hoạt động đó.
 Chương trình kế hoạch hoạt động phải được lập một cách khoa học, chi tiết đảm 
bảo tính hiệu quả . Đặc biệt, phải cương quyết chỉ đạo, tránh tình trạng đầu voi đuôi 
chuột, đánh trống bỏ dùi, làm các em chán nản và thiếu tác dụng giáo dục.
 Sau khi xây dựng xong kế hoạch phải được trình duyệt qua Ban chỉ đạo của nhà 
trường và chi đoàn để từ đó có sự thống nhất và phối hợp với các tổ chức trong nhà 
trường trong việc chỉ đạo các hoạt động.
Bước 3: Chỉ đạo thực hiện:
 Sau khi đã làm tốt công tác chuẩn bị và thiết kế nội dung chương trình, kế hoạch 
hoạt động thì tiến hành phổ biến vận động thực hiện. Trong quá trình thực hiện phải 
có sự giám sát, đôn đốc của ban chỉ đạo để kịp thời động viên, tuyên dương cũng như 
nhắc nhở và uốn nắn những lệch lạc của cá nhân và tập thể tham gia. Các ủy viên phụ 
trách từng phần hành việc phải chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức tốt những công việc 
được phân công và báo cáo diễn biến kịp thời cho ban chỉ đạo. Tổng phụ trách phải 
thường xuyên hội ý ban chỉ đạo để nắm bắt diễn biến các hoạt động, tạo mọi điều 
kiện về vật chất và tinh thần để thực hiện thành công nội dung và chương trình đề ra. 
Bước 4: Tổng kết, đánh giá kết quả:
 Sau khi một chương trình, một hoạt động kết thúc cần tiến hành tổng kết, đánh 
giá và rút kinh nghiệm, xem xét nghiêm túc những mặt mạnh cũng như những tồn tại 
và hạn chế từ công tác chuẩn bị, tổ chức điều hành .để từ đó phát huy những mặt 
tích cực đồng thời hạn chế những mặt còn tồn tại, từ đó rút kinh nghiệm cho các hoạt 
động khác. 
 Mặt khác tổng kết đánh giá kết quả cũng là để kịp thời động viên, tuyên dương 
và khen thưởng những cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc.
 Việc đánh giá, tuyên dương, khen thưởng phải đảm bảo tính công bằng, khách 
quan nhằm tạo được khí thế sôi nổi, lôi cuốn các em tham gia tích cực và có chất 
lượng các hoạt động tiếp theo.
 5 2.2. Giải pháp 2: Tìm hiểu và phân loại các trò chơi dân gianmột cách hợp lý
 Đặc điểm của các trò chơi dân gianđược triển khai ở trong trường học là đơn 
giản, dễ chơi và dễ hòa nhập. Dù bất cứ nơi đâu, trong gia đình, tại sân trường hay 
trên đường làng đều có thể tổ chức được các trò chơi dân gianphù hợp. Nếu sân nhà 
nhỏ thì các em chơi các trò như: Chơi ô ăn quan, Chơi cờ, Bắn bi, ... Nếu diện tích
lớn hơn thì chơi các trò như: Rồng rắn lên mây, Đá cầu, Trồng nụ trồng hoa, Bịt
mắt bắt dê, Trốn tìm, Ở những bãi cỏ lớn thì chơi các trò như: Cướp cờ, Kéo co, 
Đá gà,...
 Xét về chức năng giáo dục thì trò chơi dân giancó thể chia làm 4 nhóm cơ bản:
Nhóm 1: Loại trò chơi mang tính vận động như: Kéo co, Tập tầm vông, dung dăng 
dung dẻ, bịt mắt bắt dê, rồng rắn lên mây, nu na nu nống, 
Nhóm 2: Loại trò chơi học tập như : Chơi ô ăn quan, đố cây, đố quả, nhằm giúp các 
em phát triển về trí tuệ, trí tưởng tượng, sự tính toán và óc quan sát.
Nhóm 3 : Loại trò chơi mang tính sáng tạo như: Các trò chơi mà học sinh có thể tự 
làm nên những đồ vật bằng các vật liệu đơn giản có từ thiên nhiên như làm chong 
chóng bằng lá dừa, nặn trâu bằng đất sét, làm trâu bằng lá đa, chọi gà bằng thân cây 
cỏ 
Nhóm 4: Loại trò chơi mô phỏng, bắt chước: Là các trò chơi mà trẻ bắt chước cách 
sinh hoạt của người lớn như : Làm nhà, nấu ăn, mua bán, làm mẹ, làm cô giáo 
2.3. Giải pháp 3: Các kỹ năng tổ chức thành công các trò chơi dân gian
 Người đứng ra tổ chức (là TPT) cần nắm được các bí quyết tổ chức thế nào cho 
hấp dẫn, thu hút được các em tham gia, việc này không chỉ có ý nghĩa đối với các trò 
chơi dân gianmà còn nói chung với các hoạt động Đội.
 + Làm chủ cuộc chơi và bản thân
 + Khẩu khí dứt khoát, rõ ràng, cứng rắn, đủ âm lượng, lôi cuốn, thu hút được 
người chơi.
 + Cử chỉ, hành động : Phải nhanh nhẹn, dứt khoát, nét mặt hài hước.
 + Cùng tham gia chơi với các em, tạo không khí vui vẻ, sôi nổi hòa đồng và thân 
thiện.
 6 + Chuẩn bị một số trò chơi đa dạng và phong phú làm sao cho đối tượng chơi 
hiểu rằng mình không bao giờ hết vốn và coi người quản trò như một ngân hàng trò 
chơi.
 + Biết dừng lại đúng lúc tạo cảm giác “thèm” cho người chơi.
2.4. Giải pháp 4: Nắm vững tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học.
 2.4.1 Đặc điểm về mặt cơ thể
 + Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương 
tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì 
thế mà trong các hoạt động vui chơi của các em cần phải chú ý quan tâm, hướng các 
em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
+Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động 
như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò 
chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ.
+ Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em 
chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do 
đó, các em rất hứng thú với các trò chơi dân gian mang trí tuệ như đố vui trí tuệ, các 
cuộc thi trí tuệ,...
+Chiều cao mỗi năm tăng thêm 4 cm; trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng 2kg. Nếu trẻ 
vào lớp 1 đúng 6 tuổi thì có chiều cao khoảng 106 cm (nam) 104 cm (nữ) cân nặng 
đạt 15,7 kg (nam) và 15,1 kg (nữ). Tuy nhiên, con số này chỉ là trung bình, chiều cao 
của trẻ có thể xê dịch khoảng 4-5 cm, cân nặng có thể xê dịch từ 1-2 kg. Tim của trẻ 
đập nhanh khoảng 85 - 90 lần/ phút, mạch máu tương đối mở rộng, áp huyết động 
mạch thấp, hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh.
 2.4.2 Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống
 Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học 
hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi 
sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn 
diễn ra các hoạt động khác như:
 + Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang 
các trò chơi vận động.
 7 + Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và 
gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia 
lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...
 + Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của 
trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
 2.4.3 Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ)
 + Nhận thức cảm tính
 Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát 
triển và đang trong quá trình hoàn thiện.
 Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang 
tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, 
đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật 
hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có 
phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp 
xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...)
 + Nhận thức lý tính
 Tư duy: Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan 
hành động.
Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát.
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát 
hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần 
đông học sinh tiểu học.
 Tưởng tượng: Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so 
với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. 
Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
 Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và 
dễ thay đổi.
 Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình 
ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát 
triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, 
vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh 
 8 mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với 
các rung động tình cảm của các em.
 + Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
 Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt 
đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu 
hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ 
có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản 
thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
 Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và 
lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ 
phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. 
Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển 
trí tuệ của trẻ.
 + Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
 Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều 
khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý 
có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng 
trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, 
dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập 
trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
 Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của 
mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí 
trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài 
hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ 
đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng 
hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
 + Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
 Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic
 Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế 
hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý 
 9 nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay 
xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
 Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi 
nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn 
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp 
dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em...
 + Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
 Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu 
của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để 
được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở các 
em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra 
nếu gặp khó khăn.
 Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành 
mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể 
trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào 
hứng thú nhất thời.
 2.4.4 Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
 Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với 
các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ 
còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà 
cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
 Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với 
tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.
 Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn 
luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu 
như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời 
cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của 
trẻ.
 2.4.5 Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
 Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà 
trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Nhìn 
 10

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_hinh_thuc_va_phuong_phap_to_chuc_cac_tro_choi_da.docx