SKKN Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh Tiểu học
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh Tiểu học

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN SƠN ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN NHẰM GÓP PHẦN GIÁO DỤC NHÂN CÁCH VÀ BỒI DƯỠNG TÂM HỒN TRONG SÁNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC Nhóm tác giả: Nguyễn Đình Vinh Phạm Thị Hương Nguyễn Thị Hằng Nguyễn Đình Như Lê Thị Hiền Yên Sơn, tháng 05 năm 2022 1 PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN SƠN TÊN SÁNG KIẾN MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN NHẰM GÓP PHẦN GIÁO DỤC NHÂN CÁCH VÀ BỒI DƯỠNG TÂM HỒN TRONG SÁNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC Nhóm tác giả: Nguyễn Đình Vinh Phạm Thị Hương Nguyễn Thị Hằng Nguyễn Đình Như Lê Thị Hiền Yên Sơn, tháng 05 năm 2022 2 I. TÊN SÁNG KIẾN, LĨNH VỰC ÁP DỤNG 1.Là tác giảđề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số hình thức và phương pháp tổ chức các trò chơi dân gian nhằm góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng cho học sinh tiểu học.” 2. Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh trong trường tiểu học. II. NỘI DUNG 1. Giải phát cũ thường làm: Một số năm gần đây nhìn chung các trường đã tổ chức đưa trò chơi dân gian vào trường học, song hiệu quả mang lại chưa cao vì cách thức tổ chức còn sơ sài, mang tính đơn điệu, chưa thu hút được các em HS tham gia một các đầy đủ vì vậy chưa mang lại hiệu quả giáo dục như ý muốn. Người tổ chức còn thiếu kinh nghiệm về vốn kiến thức cũng như đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học. Chính vì thế chưa thực sự thu hút được các em tham gia đông đảo, tinh thần tự giác chưa cao, chỉ khi thầy cô nhắc nhở hay tổ chức thì các em mới chơi. Cáctrò chơi dân gian nói chung chưa đi vào cuộc sống thường ngày như một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với các em. 1.1 Ưu điểm của giải pháp cũ Thực tế cho thấy một số trò chơi mang tính bạo lực như súng đạn, gươm.. xuất phát từ Trung Quốc đang lan tràn vào thị trường Việt Nam, bên cạnh đó sự phát triển của internet các quán Games online ngày càng xuất hiện nhiều làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của các em học sinh, gây nên tình trạng học sinh bỏ học, trốn học đi chơi điện tử dẫn đến kết quả học tập sa sút, thậm chí còn dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như ăn cắp tiền của và một số biểu hiện tiêu cực khác gây nên sự tha hóa về đạo đức của một số bộ phận học sinh. Việc tổ chức các trò chơi dân gian, một hoạt động mang tính truyền thống được lưu truyền trong dân gian đã giúp các em học sinh biết thêm được nhiều trò chơi bổ ích nhằm khơi dậy trong các em tình yêu quê hương đất nước và con người Việt Nam, đồng thời góp phần giáo dục đạo đức giúp các em tránh xa được các trò chơi độc hại. 1.2Nhược điểm của giải pháp cũ 3 - Một số năm gần đây nhìn chung các trường đã tổ chức đưa trò chơi dân gianvào trường học, song hiệu quả mang lại chưa cao vì cách thức tổ chức còn sơ sài, mang tính đơn điệu, chưa thu hút được các em HS tham gia một các đầy đủ vì vậy chưa mang lại hiệu quả giáo dục như ý muốn. Người tổ chức còn thiếu kinh nghiệm về vốn kiến thức cũng như đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học. Chính vì thế chưa thực sự thu hút được các em tham gia đông đảo, tinh thần tự giác chưa cao, chỉ khi thầy cô nhắc nhở hay tổ chức thì các em mới chơi. Cáctrò chơi dân giannói chung chưa đi vào cuộc sống thường ngày như một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với các em. 2. Giải pháp mới cải tiến: Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huy giám đốc bảo tàng dân tộc học Việt Nam cho rằng: Trò chơi dân gian không chỉ đơn thuần là một trò chơi của trẻ nhỏ mà nó còn chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và giầu bản sắc. Trò chơi dân giankhông chỉ nâng cánh cho tâm hồn, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo mà còn giúp các em hiểu biết về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương đất nước.Chính vì thế khi tôi được phân công làm TPT Đội của nhà trường năm học 2021 - 2022 các trò chơi dân gian đã được đặt ra trong chủ đề của năm học và là việc làm được tổ chức thường xuyên, có kế hoạch, có ý nghĩa để xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. Tạo tâm lý thoải mái cho học sinh đến trường. Để làm tốt được việc đó tôi đã có một số giải pháp cải tiến như sau: 2.1. Giải pháp 1: Tìm hiểu và nắm vững các bước thiết kế một hoạt động tổ chức trò chơi dân gian Bước 1: Công tác chuẩn bị Người giáo viên TPT cần tìm hiểu và nghiên cứu kỹ các công văn, chỉ thị của Phòng GD&ĐT, HĐĐ các cấp và nhiệm vụ năm học của nhà trường, đồng thời nắm bắt những nhu cầu, nguyện vọng của các đội viên trong liên đội để từ đó xây dựng kế hoạch hoạt động thật phù hợp với đặc điểm vùng miền, đồng thời phải đảm bảo những nội dung, yêu cầu đề ra. Bước 2: Thiết kế nội dung, chương trình hoạt động: 4 Đây là một khâu hết sức quan trọng, có tính quyết định cho việc thành công hay không của việc tổ chức các trò chơi dân gian, phải đảm bảo bám sát mục đích, yêu cầu đặt ra và phải có tính khả thi cao. Xác định những công việc thường xuyên, chủ yếu và trọng tâm. Tiến trình công việc phải gắn với thời điểm cụ thể của hoạt động đó. Chương trình kế hoạch hoạt động phải được lập một cách khoa học, chi tiết đảm bảo tính hiệu quả . Đặc biệt, phải cương quyết chỉ đạo, tránh tình trạng đầu voi đuôi chuột, đánh trống bỏ dùi, làm các em chán nản và thiếu tác dụng giáo dục. Sau khi xây dựng xong kế hoạch phải được trình duyệt qua Ban chỉ đạo của nhà trường và chi đoàn để từ đó có sự thống nhất và phối hợp với các tổ chức trong nhà trường trong việc chỉ đạo các hoạt động. Bước 3: Chỉ đạo thực hiện: Sau khi đã làm tốt công tác chuẩn bị và thiết kế nội dung chương trình, kế hoạch hoạt động thì tiến hành phổ biến vận động thực hiện. Trong quá trình thực hiện phải có sự giám sát, đôn đốc của ban chỉ đạo để kịp thời động viên, tuyên dương cũng như nhắc nhở và uốn nắn những lệch lạc của cá nhân và tập thể tham gia. Các ủy viên phụ trách từng phần hành việc phải chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức tốt những công việc được phân công và báo cáo diễn biến kịp thời cho ban chỉ đạo. Tổng phụ trách phải thường xuyên hội ý ban chỉ đạo để nắm bắt diễn biến các hoạt động, tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần để thực hiện thành công nội dung và chương trình đề ra. Bước 4: Tổng kết, đánh giá kết quả: Sau khi một chương trình, một hoạt động kết thúc cần tiến hành tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm, xem xét nghiêm túc những mặt mạnh cũng như những tồn tại và hạn chế từ công tác chuẩn bị, tổ chức điều hành .để từ đó phát huy những mặt tích cực đồng thời hạn chế những mặt còn tồn tại, từ đó rút kinh nghiệm cho các hoạt động khác. Mặt khác tổng kết đánh giá kết quả cũng là để kịp thời động viên, tuyên dương và khen thưởng những cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc. Việc đánh giá, tuyên dương, khen thưởng phải đảm bảo tính công bằng, khách quan nhằm tạo được khí thế sôi nổi, lôi cuốn các em tham gia tích cực và có chất lượng các hoạt động tiếp theo. 5 2.2. Giải pháp 2: Tìm hiểu và phân loại các trò chơi dân gianmột cách hợp lý Đặc điểm của các trò chơi dân gianđược triển khai ở trong trường học là đơn giản, dễ chơi và dễ hòa nhập. Dù bất cứ nơi đâu, trong gia đình, tại sân trường hay trên đường làng đều có thể tổ chức được các trò chơi dân gianphù hợp. Nếu sân nhà nhỏ thì các em chơi các trò như: Chơi ô ăn quan, Chơi cờ, Bắn bi, ... Nếu diện tích lớn hơn thì chơi các trò như: Rồng rắn lên mây, Đá cầu, Trồng nụ trồng hoa, Bịt mắt bắt dê, Trốn tìm, Ở những bãi cỏ lớn thì chơi các trò như: Cướp cờ, Kéo co, Đá gà,... Xét về chức năng giáo dục thì trò chơi dân giancó thể chia làm 4 nhóm cơ bản: Nhóm 1: Loại trò chơi mang tính vận động như: Kéo co, Tập tầm vông, dung dăng dung dẻ, bịt mắt bắt dê, rồng rắn lên mây, nu na nu nống, Nhóm 2: Loại trò chơi học tập như : Chơi ô ăn quan, đố cây, đố quả, nhằm giúp các em phát triển về trí tuệ, trí tưởng tượng, sự tính toán và óc quan sát. Nhóm 3 : Loại trò chơi mang tính sáng tạo như: Các trò chơi mà học sinh có thể tự làm nên những đồ vật bằng các vật liệu đơn giản có từ thiên nhiên như làm chong chóng bằng lá dừa, nặn trâu bằng đất sét, làm trâu bằng lá đa, chọi gà bằng thân cây cỏ Nhóm 4: Loại trò chơi mô phỏng, bắt chước: Là các trò chơi mà trẻ bắt chước cách sinh hoạt của người lớn như : Làm nhà, nấu ăn, mua bán, làm mẹ, làm cô giáo 2.3. Giải pháp 3: Các kỹ năng tổ chức thành công các trò chơi dân gian Người đứng ra tổ chức (là TPT) cần nắm được các bí quyết tổ chức thế nào cho hấp dẫn, thu hút được các em tham gia, việc này không chỉ có ý nghĩa đối với các trò chơi dân gianmà còn nói chung với các hoạt động Đội. + Làm chủ cuộc chơi và bản thân + Khẩu khí dứt khoát, rõ ràng, cứng rắn, đủ âm lượng, lôi cuốn, thu hút được người chơi. + Cử chỉ, hành động : Phải nhanh nhẹn, dứt khoát, nét mặt hài hước. + Cùng tham gia chơi với các em, tạo không khí vui vẻ, sôi nổi hòa đồng và thân thiện. 6 + Chuẩn bị một số trò chơi đa dạng và phong phú làm sao cho đối tượng chơi hiểu rằng mình không bao giờ hết vốn và coi người quản trò như một ngân hàng trò chơi. + Biết dừng lại đúng lúc tạo cảm giác “thèm” cho người chơi. 2.4. Giải pháp 4: Nắm vững tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học. 2.4.1 Đặc điểm về mặt cơ thể + Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà trong các hoạt động vui chơi của các em cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn. +Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ. + Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi dân gian mang trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ,... +Chiều cao mỗi năm tăng thêm 4 cm; trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng 2kg. Nếu trẻ vào lớp 1 đúng 6 tuổi thì có chiều cao khoảng 106 cm (nam) 104 cm (nữ) cân nặng đạt 15,7 kg (nam) và 15,1 kg (nữ). Tuy nhiên, con số này chỉ là trung bình, chiều cao của trẻ có thể xê dịch khoảng 4-5 cm, cân nặng có thể xê dịch từ 1-2 kg. Tim của trẻ đập nhanh khoảng 85 - 90 lần/ phút, mạch máu tương đối mở rộng, áp huyết động mạch thấp, hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh. 2.4.2 Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như: + Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các trò chơi vận động. 7 + Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,... + Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,... 2.4.3 Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ) + Nhận thức cảm tính Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...) + Nhận thức lý tính Tư duy: Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học. Tưởng tượng: Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau: Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh 8 mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em. + Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ. + Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định. + Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý 9 nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em... + Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn. Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời. 2.4.4 Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư... Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều. Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ. 2.4.5 Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Nhìn 10
File đính kèm:
skkn_mot_so_hinh_thuc_va_phuong_phap_to_chuc_cac_tro_choi_da.docx