SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh Lớp 2
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh Lớp 2

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến phòng giáo dục thành phố Tam Điệp. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Họ và tên: Bùi Thị Phượng Chức danh: Giáo viên Trình độ: Đại học sư phạm Tiểu học Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Trãi, TP Tam Điệp, Ninh Bình. Email: tuphuonghan1989@gmail.com Số ĐT: 0362196225 I. TÊN BIỆN PHÁP, LĨNH VỰC ÁP DỤNG 1. Tên biện pháp: Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh lớp 2. 2. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục Tiểu học. II. NỘI DUNG BIỆN PHÁP 1. Mô tả bản chất sáng kiến: Năm học 2022-2023 là năm thứ hai lớp 2 thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Mục tiêu của chương trình lớp 2 là dạy và học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình sách giáo khoa mới là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết và phải được thực hiện ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn Toán. Yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là phải thực sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, còn giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn để hoạt động học tập diễn ra “nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn và chất lượng hơn” nhằm phát huy khả năng tư duy, tự tìm tòi, tự khám phá tri thức của học sinh. Trong thực tế dạy học, qua những năm giảng dạy môn Toán ở lớp 2 và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp qua các tiết dự giờ, tôi thấy một số học sinh trong quá trình học còn thụ động, không ham thích học môn Toán qua các tiết dự giờ, tôi thấy một số học sinh trong quá trình học còn thụ động, chưa ham thích học môn Toán. Có em còn lúng túng khi tham gia các hoạt động học tập, chưa linh hoạt vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. Trên cơ sở đó hướng dẫn học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài học một cách nhanh nhẹn, nhạy bén để tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Học sinh có thể vận dụng các kiến thức đã học để áp dụng vào thực hành theo năng lực của từng cá nhân,dưới sự tổ chức hướng dẫn hợp lý của giáo viên và sự trợ giúp đúng mức đồ dùng học tập, làm cho học sinh biết cách tư duy sáng tạo, cảm thấy hứng thú, tự tin làm nền tảng vững chắc cho các lớp học kế tiếp. Xuất phát từ chương trình dạy học và thực tế dạy học môn Toán lớp 2 hiện nay, tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh lớp 2”. Điều này rất cần thiết và có ý nghĩa đối với giáo viên và học sinh nhằm mục đích trao đổi,học hỏi, rút ra được những bài học kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp về đổi mới phương pháp dạy học môn Toán giúp các em tiếp thu kiến thức một cách tích cực, chủ động, nắm vững kiến thức môn Toán và vận dụng linh hoạt vào cuộc sống đạt kết quả tốt nhất. 2. Thực trạng: Những năm trước đây dạy học toán theo hướng phát triển năng lực tôi đã nghiên cứa và vận dụng. Tuy nhiên kết quả đạt được chưa được như mong muốn, chưa phát huy được hết khả năng sáng tạo của học sinh. Những kiến thức khó, kiến thức mới tôi cho rằng học sinh khó có thể tìm ra kết quả và diễn đạt được điều mình muốn nói nên thường sử dụng phương pháp vấn đáp để dẫn dắt, hướng dẫn các em. Chưa dám mạnh dạn đẩy nội dung kiến thức mới cho học sinh làm việc cá nhân hoặc nhóm, chưa có sự đầu tư gợi ý cho học sinh tự nghiên cứu. Còn sợ các em làm chậm, hoàn thành mục tiêu bài học không đúng thời gian của tiết học. Còn lệ thuộc quá nhiều vào sách giáo khoa, sách giáo viên nên thường rập khuôn một cách máy móc, cứng nhắc thiếu sự mở rộng, sáng tạo. Phương pháp dạy học còn mang nặng phương pháp truyền thống, chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. Cách thức tổ chức cho học sinh học tập còn lúng túng, chủ yếu là làm mẫu, giảng giải, thuyết trình. Một số không ít học sinh còn thụ động không chịu suy nghĩ, chỉ tiếp nhận những điều đã có sẵn. Trong giờ học, học sinh ít được hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm để xây dựng kiến thức cần học. Việc học sinh tự tìm tòi khám phá để tìm ra kiến thức mới chưa được giáo viên chú trọng. Vì thế giờ học chưa sôi nổi. Kiến thức không được các em tự tìm ra nên các em thường rất nhanh quên. Kỹ năng tổ chức tiết học chưa tốt nên một số em chưa mạnh dạn, tự tin bày tỏ ý kiến. Tiết dạy vẫn quen với lối dạy học đồng loạt với những nhiệm vụ học tập không có tính phân hoá, ít chú ý tới năng lực học tập của từng đối tượng học sinh. Có giáo viên chưa thường xuyên củng cố cách làm bài toán qua từng bài học mà chỉ chú ý hướng dẫn Hs làm được bài toán đó. * Ưu điểm: Nhà trường đã tổ chức tập huấn cho giáo viên dạy lớp 2 về chương trình GDPT 2018 và các phương pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Đồng thời, trang bị cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Giáo viên tích cực nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với nội dung chương trình và phù hợp với đối tượng học sinh; đồng thời nâng cao chất lượng giảng dạy. Các em học sinh rất ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo, tỉ lệ học chuyên cần tương đối cao. Chất lượng học tập của đa số các em tốt. Đa số học sinh tự giác tham gia vào các hoạt động học tập. Sách vở và đồ dùng học tập của học sinh được phụ huynh mua sắm đầy đủ. * Nhược điểm: Năm học này là năm thứ hai thực hiện dạy - học theo chương trình GDPT 2018 nên có một số giáo viên còn lúng túng trong khâu lựa chọn, vận dụng phương pháp dạy học. Giờ Toán chưa lôi cuốn, chưa tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp thu kiến thức. Trong giờ học, có học sinh không tập trung, không hứng thú học. Một số học sinh còn thụ động trong việc chuẩn bị bài ở nhà, nhút nhát khi tham gia hoạt động nhóm, nói nhỏ, thiếu tự tin trong giao tiếp và bày tỏ ý kiến riêng. Chính vì ngại học, không hứng thú học nên học sinh chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập, thể hiện qua một số dấu hiệu sau: + Học sinh ít giơ tay phát biểu và trình bày ý kiến của mình về các vấn đề giáo viên nêu ra. + Nếu được hỏi, chủ yếu học sinh vẫn lệ thuộc vào sách giáo khoa, ít tư duy. + Không thắc mắc hay đòi hỏi giáo viên phải giải thích cặn kẽ những vấn đề mà mình chưa hiểu rõ. + Không khí của lớp buồn tẻ, trầm lắng hoặc ít sôi nổi khi học sinh không thực hiện được yêu cầu của giáo viên. Tất cả những lí do trên dẫn đến chất lượng học tập môn Toán chưa cao. 3. Giải pháp mới. Giải pháp 1: Nắm vững nội dung, mục tiêu, yêu cầu bài học để thiết kế bài giảng phù hợp, sáng tạo. Trước hết, để có giờ dạy tốt thì việc chuẩn bị bài của giáo viên đóng vai trò rất quan trọng. Chuẩn bị bài của giáo viên không chỉ là chuẩn bị về đồ dùng dạy học mà giáo viên còn phải chuẩn bị về cả nội dung bài học, phương pháp dạy học để từ đó xác định rõ cho mình là: Dạy cái gì? Dạy ai? Dạy nội dung này để làm gì? Dạy như thế nào? Muốn dạy hay trước hết giáo viên phải nắm chắc nội dung cần dạy, nắm vững kiến thức hiểu được ý đồ sách giáo khoa. Giáo viên có nắm vững kiến thức, hiểu đối tượng học sinh thì mới có thể đưa ra phương pháp thích hợp và chuẩn bị tổ chức cho học sinh học tập có hiệu quả. Việc nắm vững mục tiêu, yêu cầu cần đạt và xác định rõ trọng tâm của bài dạy là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong quá trình giảng dạy. Nó giúp cho giáo viên tự tin, làm chủ được tiết dạy, khai thác bài có chiều sâu và đạt hiệu quả cao, tạo hứng thú học tập cho học sinh. a. Nắm vững yêu cầu khi thiết kế kế hoạch bài dạy Bản thân tôi đã thực hiện thiết kế Kế hoạch bài dạy theo tinh thần đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học, với tinh thần “dạy học là tổ chức cho học sinh hoạt động để tự tiếp thu kiến thức và phát triển phẩm chất năng lực”. Cải tiến cách thiết kế KHBD đảm bảo yêu cầu tinh giản, vững chắc các kiến thức, các hoạt động cơ bản của tiết dạy, đảm bảo cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng phù hợp với trình độ học sinh; mục tiêu cần đạt cho từng đối tượng học sinh của lớp.Cấu trúc một bài dạy bao gồm các hoạt động: * Khởi động: Hoạt động khởi động chỉ diễn ra trong một vài phút đầu giờ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng, kích hoạt sự tích cực của học sinh. Một tiết học Toán sẽ tạo được sự yêu thích đối với học sinh nếu ngay từ những giây phút đầu tiên giáo viên biết khơi gợi ở các em hứng thú đối với bài học. Khi có hứng thú học tập, học sinh sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động học của mình, từ đó tích cực và sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức.Hoạt động khởi động bài học được sử dụng bằng cách đưa ra tình huống có vấn đề liên quan đến bài học (hoặc kết nối bài cũ - bài mới), trò chơi vận động, vận động theo xem clip, bài hát * Khám phá, hình thành kiến thức mới: Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tự mình tìm tòi, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh là người chủ động, tích cực học tập, hợp tác với người khác để kiến tạo kiến thức. Quá trình giáo viên tổ chức cho học sinh trải nghiệm cần chú ý cho học sinh làm việc: cá nhân, nhóm và cả lớp. Trong tất cả các bài học đều có quá trình trải nghiệm và học sinh tự mình phân tích, cùng phân tích khám phá và rút ra được kiến thức theo yêu cầu của hoạt động. Học sinh được nghe nhận xét, đánh giá về kết quả hoạt động của mình, được tư vấn, hỗ trợ để hoàn thành nhiệm vụ. Giáo viên có thể kết luận lại vấn đề mà cũng có thể không cần nhắc kết luận khi kết luận/kiến thức rút ra đã có từ trong kết quả của đa số học sinh và được học sinh kết luận. * Luyện tập, thực hành: Mục đích chủ yếu là tạo sự nối kết giữa kiến thức vừa khám phá với luyện tập đơn giản. GV tổ chức cho HS giải quyết các nhiệm vụ hay các bài tập để tự HS khắc sâu kiến thức đã khám phá hoặc phát triển kiến thức đó trở thành kiến thức mới hoặc vận dụng kiến thức đó làm tính giải toán và áp dụng thực tế. Tổ chức cho học sinh thực hành các bài tập vận dụng kiến thức đã học (theo cá nhân, nhóm, lớp). Khi tổ chức cho học sinh thực hành, giáo viên cần đặc biệt quan tâm đều đến tất cả các đối tượng học sinh. - Ở hoạt động này, giáo viên chỉ cần nêu các lệnh điều hành: Nêu nhiệm vụ tổng quát, yêu cầu cần thực hiện. * Vận dụng, trải nghiệm: Vận dụng kiến thức bài học vào giải quyết các vấn đề thực tế đơn giản xung quanh trong cuộc sống. Đây là một nội dung cần được giáo viên chú ý, cần đưa vào kế hoạch và được kiểm tra sau khi học sinh thực hiện. Đảm bảo tất cả học sinh đã thực hiện bài tập vận dụng do giáo viên giao (trừ vấn đề không thể vận dụng). Vấn đề vận dụng có thể ngay trong lớp học, trong khu vực trường hoặc ở nhà hay cộng đồng. b. Thiết kế bài giảng khoa học, sáng tạo Thiết kế bài dạy là kế hoạch tổ chức các hoạt động học cho học sinh, đó là những hoạt động học mà học sinh cần và có thể thực hiện được. Những hoạt động này phát huy vốn kinh nghiệm, vốn kiến thức sẵn có của các em, những điều gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của các em, các em tham gia hoạt động học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hứng thú. Khi đó học sinh là nhân vật trung tâm, học sinh phải được hoạt động, tự tìm tòi, phát hiện, hình thành kiến thức, giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn các hoạt động học tập cho học sinh. Ngoài việc nắm vững kiến thức, xác định đúng mục tiêu và làm tốt công tác chuẩn bị thì người giáo viên cần xây dựng cho mình một kế hoạch thật hoàn hảo để khai thác bài được tốt. Giải pháp 2: Thúc đẩy động cơ học tập của học sinh Như chúng ta biết: Động cơ học tập là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng hiệu quả học tập của người học. Đối với học sinh lớp 2, động cơ học tập không có sẵn vì thế trong quá trình học tập và rèn luyện, giáo viên phải là người dẫn dắt hình thành động cơ học tập cho các em. Động cơ học tập của học sinh được hình thành khi các em cảm thấy hứng thú đối với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình. Vì vậy việc thúc đẩy động cơ học tập của học sinh có tác động rất lớn đến kết quả của hoạt động giáo dục. Để thúc đẩy động cơ học tập môn Toán của học sinh, đầu tiên giáo viên phải tạo ra được môi trường học tập thân thiện giữa thầy và trò, để các em không có cảm giác áp lực, sợ hãi việc học Toán. Tôi vừa là người hướng dẫn, vừa là người bạn giúp các em thoải mái, tự tin lĩnh hội kiến thức. Cùng với các em thực hành và khám phá nội dung bài học. Việc nhận xét học sinh cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thúc đẩy động cơ học tập của học sinh. Muốn các em thấy được sự tiến bộ trong học tập, tôi phải chú ý đến tính vừa sức, không đưa ra những yêu cầu quá cao đối với học sinh. Trong quá trình giảng dạy, tôi không quá khắt khe với những lỗi mà học sinh mắc phải để tránh cho các em tâm lí sợ mắc lỗi khi trả lời. Thay vì ngắt lời khi các em để sửa lỗi, tôi để cho học sinh trả lời xong rồi khích lệ hay cổ vũ các em. Sau đó, gọi học sinh khác nhận xét và sửa lỗi cho bạn hoặc tôi sửa lỗi một cách khéo léo để tránh làm tổn thương học sinh hay khiến các em mất hứng thú học tập. Bên cạnh việc tổ chức các hình thức dạy học phong phú như hoạt động nhóm, hoạt động theo cặp đôi, hoạt động đóng vai. Tôi thường xuyên khích lệ, động viên các em trong học tập bằng những cách thức khác nhau. Học sinh lớp 2 còn hiếu động, các em thường khó tập trung vào việc gì trong khoảng thời gian dài, vì vậy tôi phải tạo ra những tình huống để kích thích, khuyến khích các em thi đua với nhau, giúp các em quên đi sự mệt mỏi, nhàm chán trong giờ học. Tôi luôn thân thiện, gần gũi với học sinh để tạo không khí thoải mái trước khi vào giờ học. Với những học sinh có tính hay nhút nhát, tôi chủ động xuống chỗ ngồi của các em hỏi các em chuyện về gia đình, về chuyện học hành hay một vấn đề nào đó mà các em yêu thích để các em cảm thấy gần gũi với cô giáo. Nếu học sinh trả lời hay làm sai bài tập, tôi luôn cố gắng giải thích, giúp đỡ và hướng dẫn các em cách sửa chữa. Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, khen ngợi những ưu điểm của các em. Trong mỗi tiết dạy, tôi đã liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế cuộc sống để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn Toán trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức hơn. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, giới thiệu các em về những tấm gương sáng biết vượt khó khăn, vươn lên trong học tập và đạt được kết quả tốt để các em noi theo, thấy tầm quan trọng của việc học tập. Đồng thời, giáo viên cần phối hợp với gia đình để giáo dục ý thức học tập của học sinh khi ở nhà, quan tâm, nhắc nhở, động viên học sinh học tập để tạo động lực cho các em phấn đấu vươn lên trong học tập. Giải pháp 3: Tổ chức cho học sinh các hoạt động tự phát hiện và tự chiếm lĩnh kiến thức bài học. Chúng ta đều biết rằng, trong tiết học giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn còn học sinh là chủ thể trong mọi hoạt động. Vì thế, tôi luôn tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình; thực hiện “Dạy học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh”, tạo mọi điều kiện để học sinh tự giải quyết vấn đề của bài học. Tôi không cung cấp kiến thức trực tiếp cho học sinh, mà khơi gợi để kiến thức đến với học sinh thông qua hoạt động tự chiếm lĩnh kiến thức của các em. Từ những câu hỏi mở, bằng sự quan sát trên đồ dùng dạy học, tôi dẫn dắt các em vào vấn đề. Từ đó, các em sẽ tự phát hiện và rút ra được kiến thức cơ bản, trọng tâm. Có như vậy các em mới khắc sâu kiến thức hơn. Ví dụ: Khi dạy toán cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 20 cho học sinh lớp 2, tôi luôn yêu cầu học sinh tính bằng nhiều cách trong đó có vận dụng tính nhẩm để tìm nhanh kết quả. * Bài 7: Phép cộng (qua 10) trong phạm vi 20 - Cách 1: Học sinh thực hiện tính 9+5 = 14 bằng cách đếm tiếp 9, 10, 11, 12, 13, 14 Vậy 9 + 5 = 14 - Cách 2: Dựa vào hình vẽ SGK, khuyến khích học sinh sử dụng sơ đồ tách số: 9 + 5 1 - Tách 5 thành 1 và 4. - 9 + 1 = 10; 10 + 4 = 14 4 Vậy: 9 + 5 = 14 Cách thực hiện này yêu cầu học sinh phải huy động các kiến thức đã học ở lớp 1(9+1=10, 5 gồm 1 và 4) để tự phát hiện kiến thức mới và tạotiền đề cho việc lập bảng cộng có nhớ. - Cách 3: Lập bảng cộng dạng “9 cộng với một số” và học thuộc lòng: 9 + 2 = 11 9 + 3 = 12 9 + 4 = 13 9 + 5 = 14 9 + 6 = 15 9 + 7 = 16 9 + 8 = 17 9 + 9 = 18 Tôi cho học sinh trả lời câu hỏi về các phép tính trong bảng cộng, rút ra nhận xét như sau: + Số hạng thứ nhất của các phép tính đều là 9. + Số hạng thứ hai của các phép tính theo thứ tự tăng dần (từ 2 đến 9). + Tổng của các phép tính theo thứ tự tăng dần (từ 11 đến 18). Với cách này học sinh sẽ khắc sâu kiến thức hơn, tránh lạm dụng đồ dùng trực quan, đây cũng chỉ là bước đầu học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên cần giúp học sinh nhận ra sự cần thiết của học Toán: học không phải chỉ để biết mà học còn để vận dụng làm bài tập và áp dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống. Chẳng hạn: Tính nhẩm: 9+3 = ; 9+6 = ; 9+8 = ; 9+7 = ; 9+4 = 3+9 = ; 6+9 = ; 8+9 = ; 7+9 = ; 4+9 = Trên cơ sở biết cách đếm tiếp, biết cách tính nhẩm tách số, và học thuộc bảng cộng thì học sinh có thể tự tìm ra kết quả ở mỗi phép tính. Tôi yêu cầu HS quan sát 2 phép tính: 9 + 3 = 12 3 + 9 = 12 Tôi đặt câu hỏi để các em phát hiện ra: Vị trí các số hạng thay đổi của phép cộng như sau: + Em hãy nhận xét về vị trí của các số hạng ở 2 phép tính? (Vị trí các số hạng thay đổi cho nhau) + Em hãy nhận xét về tổng ở 2 phép tính? (Tổng giống nhau, đều bằng 12) Từ đó rút ra được kết luận: khi đổi chỗ các số hạng trong một tổng thì tổng không thay đổi. Nhằm giúp các em có thể nhận ra việc học Toán là rất cần thiết, bổ ích và thú vị tôi cho học sinh vận dụng phép tính 9 + 5 để nêu một số bài toán áp dụng vào thực tế cuộc sống hằng ngày của các em. Chẳng hạn: + Em có 9 viên kẹo, anh cho em thêm 5 viên kẹo nữa. Hỏi em có tất cả bao nhiêu viên kẹo? + Mẹ hái được 9 quả cam, em hái được 5 quả cam. Hỏi cả mẹ và em hái tất cả bao nhiêu quả cam? Như vậy, để học sinh có thể tự phát huy tính tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức, cảm thấy việc học Toán rất hứng thú, hấp dẫn và bổ ích vì nó vận dụng được vào cuộc sống hằng ngày thì đòi hỏi người giáo viên phải sử dụng nhiều hình thức, phương pháp dạy học khác nhau để các em yêu thích học môn Toán hơn. Giải pháp 4: Tích cực sử dụng đồ dùng dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Như chúng ta đã biết đồ dùng trực quan như: tranh ảnh, đồ vật, vật thật đều có tác dụng tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học. Đồ dùng trực quan giúp cho việc dạy học cụ thể hơn, vì vậy tăng khả năng tiếp thu kiến thức về các sự vật, hiện tượng.Ở lớp 2, phần lớn các em rất tò mò, rất hứng thú với đồ dùng trực quan. Chính vì vậy tôi đã sử dụng đồ dùng trực quan vào bài dạy để thu hút học sinh. Toán học là một môn khoa học mang tính trừu tượng cao. Để học sinh hiểu bài một cách sâu sắc, dễ tiếp thu kiến thức thì giáo viên cần chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy học là phương tiện vô cùng quan trọng và cần thiết nhằm giúp cho học sinh nắm bắt kiến thức một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Từ chỗ tận mắt các em nhìn, tự tay các em thực hành dẫn đến các em chiếm lĩnh kiến thức một cách tự giác, hứng thú, không bị áp đặt, giúp các em khắc sâu kiến thức hơn đồng thời giúp các em thấy được kiến thức toán học có mối quan hệ chặt chẽ với thực tiễn, tạo cho học sinh ý thức vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn cuộc sống. Ví dụ: Đối với bài 29: Ngày - giờ, giờ - phút Với bài học này, giáo viên cần chuẩn bị một số loại đồng hồ như: đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay, đồng hồ điện tử, đồng hồ báo thức để cho học sinh quan sát trực tiếp và nhận biết các loại đồng hồ cũng như công dụng của nó ngoài đời sống. Về học sinh: Mỗi em đều có một đồng hồ bằng nhựa có kim giờ, kim phút quay được để các em thực hành quay kim đồng hồ. Tôi giới thiệu: Đồng hồ thông thường có 3 cây kim: + Kim giờ (Kim ngắn nhất, dùng chỉ giờ) + Kim phút (Dài hơn kim giờ, dùng chỉ phút) + Kim giây (Kim chạy nhanh nhất để chỉ giây) Qua bài học, học sinh sẽ biết được: 1 ngày có 24 giờ, 1 giờ có 60 phút và 1 phút có 60 giây. Sau đó, giáo viên sẽ cho học sinh thực hành quay một số giờ cụ thể về thời gian như thời gian các em thức dậy, thời gian các em ăn sáng, thời gian các em đi học, thời gian ngủ buổi tối Từ cách dạy học vận dụng và liên hệ thực tế như vậy, các em sẽ biết xem giờ, biết sử dụng thời gian một cách khoa học, hợp lí để đạt hiệu quả trong học tập và nghỉ ngơi. Ngoài ra, tôi còn tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Những bài giảng được cung cấp bằng nhiều kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu hơn. Internet là một môi trường tương tác đa phương tiện, một thư viện thông tin khổng lồ và là một nguồn tư liệu dạy học vô cùng phong phú. Việc khai thác và sử dụng hiệu quả Internet trong hoạt động giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy học là rất quan trọng. Sách mềm cũng là sản phẩm ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên có thêm công cụ hỗ trợ giảng dạy và học sinh có thêm tư liệu để ôn luyện bên cạnh việc dạy học bám sát vào nội dung của sách giáo khoa. Giải pháp 5: Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học Trong mỗi tiết học, tôi đã tổ chức các phương pháp, hình thức học tập khác nhau để gây hứng thú, thu hút học sinh tham gia tích cực. * Về phương pháp: Hướng dẫn học sinh tự giác tổ chức các hoạt động học tập của mình để tìm ra kiến thức mới. Học sinh biết hợp tác và tương tác với các thành viên trong nhóm, học sinh chủ động khám phá và tìm ra tri thức. Học sinh tự đánh giá bản thân mình và được bạn bè đánh giá thông qua hoạt động nhóm. Đổi mới phương pháp dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em yêu thích môn học, tạo ra nhiều cơ hội học tập và thể hiện bản thân. * Về hình thức: Tôi thay đổi một số hình thức lên lớp mà trong đó giáo viên mang tính chủ đạo sang các hoạt động học sinh tự tổ chức các hoạt động học tập của cá nhân, nhóm, lớp... Tôi đã kết hợp các hình thức tổ chức dạy học tích cực như: dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động chung cả lớp, thảo luận, đóng vai, trò chơi để tạo cơ hội cho các em được giao tiếp với nhiều học sinh trong lớp. Ví dụ: Bài Luyện tập chung Khi nhìn vào nội dung bài học này, từ bài 1 đến bài 4 chỉ thấy hàng loạt các con số, nếu giáo viên yêu cầu học sinh tự thực hiện tính rồi giáo viên sửa bài chỉ bằng hình thức vấn đáp sẽ dễ gây sự mệt mỏi, chán nản cho học sinh. Nhưng khi giáo viên biết kết hợp nhiều hình thức học tập khác nhau (cá nhân, nhóm đôi, cả lớp ), nhiều phương pháp học tập khác nhau (Giảng giải, vấn đáp, thuyết trình, trò chơi ) thì tiết học này trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn, thu hút sự chú ý, tham gia tích cực của học sinh và đạt hiệu quả cao. Cụ thể như sau: Bài 1: Tính nhẩm. (Hình thức: cả lớp, phương pháp: trò chơi ) 7 + 7 = 12 – 8 = 7 + 6 = 2 + 9 = 15 – 8 = 13 – 7 = 8 + 4 = 18 – 9 = 13 – 6 = Ở bài tập này, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “truyền điện” để cả lớp cùng nhau tham gia sửa bài. Bài 2: Đặt tính rồi tính (Hình thức: cá nhân, phương pháp: giải quyết vấn đề) 51 + 18 = 4 + 62 = 78 – 38 = 95 – 70 = Ở bài tập này, tôi cho học sinh làm bảng con, các em tự thực hiện tính, tôi sẽ quan sát và nhận xét. Bài 3: Số? (Hình thức: nhóm, phương pháp: trò chơi ) 9 + 7 = ? 8 + 3 = ? 6 + 7 = ? 16 - 7 = ? 11 – ? = 8 13 – = ?7 16 - 9 = ? 11 – ? = 3 13 – ?= 6 Ở bài tập này, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “tiếp sức điền số”, thi đua giữa ba đội, các em còn lại quan sát và nhận xét. Bài 4: Giải toán. (Hình thức: cả lớp, phương pháp: vấn đáp, giải quyết vấn đề) Lúc đầu trên xe có 12 bạn, sau đó 3 bạn xuống xe. Hỏi trên xe còn lại bao nhiêu bạn? ? ? ? ? ?
File đính kèm:
skkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_mon_toan_c.pdf